Hiển thị các bài đăng có nhãn Thống kê. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Thống kê. Hiển thị tất cả bài đăng

Con số 30 huyền thoại

http://vienthongke.vn/attachments/article/1644/Bai3So%205_2012.pdf

Chất lượng nghiên cứu khoa học ở Việt Nam qua chỉ số trích dẫn

Chất lượng nghiên cứu khoa học ở Việt Nam qua chỉ số trích dẫn

Copy from http://ykhoa.net
Nguyễn Văn Tuấn
Nguyễn Đình Nguyên
Trên bình diện quốc gia, hai chỉ tiêu thường được sử dụng để đánh giá năng suất khoa học của một nước là số lượng bài báo khoa học được công bố trên các tập san khoa học quốc tế có hệ thống bình duyệt (peer reviewed journals), và số lần trích dẫn (citations) của những bài báo khoa học.  Số lượng bài báo phản ảnh “sản lượng” nghiên cứu khoa học và mức độ đóng góp vào tri thức toàn cầu của một nước.  Đánh giá chất lượng các công trình nghiên cứu khoa học rất khó, vì cộng đồng khoa học vẫn chưa nhất trí một chuẩn mực thống nhất cho tất cả các lĩnh vực nghiên cứu.  Tuy nhiên, hai chỉ số thường được sử dụng để ước định chất lượng của một công trình nghiên cứu khoa học là hệ số ảnh hưởng (còn gọi là impact factor), và số lần trích dẫn (citation index).  Theo định nghĩa được công nhận, hệ số ảnh hưởng là số lần trích dẫn hay tham khảo trung bình các bài báo mà tạp chí đã công bố hai năm trước [1].  Do đó, những công trình nghiên cứu được công bố trên các tạp chí có hệ số ảnh hưởng cao cũng có thể đồng nghĩa với chất lượng cao của công trình nghiên cứu.  Chẳng hạn như một nghiên cứu được công bố trên các tạp chí như Science, Nature, Cell, PNAS, New England Journal of Medicine, Lancet, v.v… chắc chắn phải có chất lượng cao hơn các nghiên cứu công bố trên các tạp chí ở Á châu, Âu châu hay tạp chí chuyên ngành ở Mĩ.  Tuy nhiên, hệ số ảnh hưởng của tạp chí cũng tùy thuộc vào bộ môn khoa học (chẳng hạn như các tập san thuộc bộ môn khoa học thực nghiệm thường có hệ số tác dụng cao hơn các tập san trong các ngành khoa học tự nhiên và toán học).
Nhưng hệ số ảnh hưởng chỉ phản ánh uy tín của tạp chí chứ không hẳn phản ảnh chất lượng của một bài báo cụ thể.  Vì thế, một cách đánh giá chất lượng khác công bằng hơn là tính số lần các nhà khoa học khác trích dẫn bài báo mà nhà khoa học đã công bố.  Có thể nói ví von rằng số lần trích dẫn là âm vang của một công trình nghiên cứu.  Một công trình nghiên cứu có chất lượng có khả năng gây ảnh hưởng trong chuyên ngành, và được nhiều đồng nghiệp trên thế giới trích dẫn.  Do đó, chỉ số trích dẫn phản ảnh khá chính xác chất lượng một công trình nghiên cứu khoa học. 
Chỉ số ảnh hưởng và chỉ số trích dẫn có thật sự phản ảnh chất lượng khoa học?  Câu trả lời ngắn là "có".  Một nghiên cứu trong thập niên 1970s về tần số trích dẫn các nghiên cứu công bố trước khi các nhà khoa học được trao giải Nobel cho thấy tính trung bình, số lần trích dẫn là 62 (so với tần số trung bình của tất cả các nhà khoa học là 6 lần).  Do đó, dù có vài biệt lệ và khiếm khuyết, số lần trích dẫn và hệ số ảnh hưởng của tạp chí phản ảnh chất lượng nghiên cứu. 
            Liên quan đến Việt Nam, theo chúng tôi biết vẫn chưa có một phân tích về chất lượng nghiên cứu khoa học qua số lần trích dẫn một cách chi tiết và so sánh với các nước khác trong vùng.  Vì thế, chúng tôi tiến hành một phân tích về chất lượng các báo cáo khoa học trên các tập san khoa học quốc tế.  Hai câu hỏi mà chúng tôi muốn tìm câu trả lời là: thứ nhất, chất lượng nghiên cứu khoa học đang ở vị trí nào; và thứ hai, có sự khác biệt gì giữa chất lượng nghiên cứu khoa học giữa các bộ môn và giữa các công trình "nội lực" và hợp tác với đồng nghiệp nước ngoài.  Hi vọng qua kết quả trả lời hai câu hỏi trên, các nhà chức trách có thể tìm cách để nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học ở nước ta.
              Trong bài viết này, chúng tôi sử dụng hệ thống "Web of Science" của Viện thông tin khoa học (Institute of Scientific Information) để thu thập tần số trích dẫn cho từng bài báo từ Việt Nam được công bố trong thời gian 2000-2001.  Chúng tôi chọn thời gian này vì hai lí do chính : (a) một bài báo khi đã công bố đòi hỏi thời gian để cộng đồng khoa học thẩm định và tham khảo, và qua kinh nghiệm, chúng tôi chọn thời gian 5 năm sau công bố để tính số lần trích dẫn vì thời gian 5 năm có thể nói là "đủ" để một công trình nghiên cứu có khả năng gây tác động ; và (b) số lượng bài báo hàng năm từ Việt Nam còn thấp (dao động khoảng 330 đến 350 bài), cho nên nếu làm phân tích số bài báo trong vòng một năm e rằng không đủ số liệu để phân tích theo chuyên ngành, và vì thế chúng tôi quyết định chọn thời gian 2 năm để tăng số lượng bài báo và qua đó tăng độ tin cậy thống kê của các ước số [2].
"Sản lượng" nghiên cứu khoa học 
            Trước khi trả lời hai câu hỏi trên, chúng tôi điểm qua sản lượng nghiên cứu khoa học ở Việt Nam và so sánh với các nước trong vùng.  Để làm việc này, chúng tôi mở rộng thời gian tham khảo đến 10 năm, tính từ 1996 đến 2005. Trong thời gian 10 năm (1996–2005), có 3.456 bài báo khoa học trên các tập san khoa học quốc tế xuất phát từ Việt Nam.  Tính trung bình, con số sản lượng khoa học của chúng tôi cũng phù hợp với một phân tích trước đây của giáo sư Phạm Duy Hiển [3].
Con số sản lượng khoa học từ Việt Nam, khi so sánh với các nước trong vùng, cho thấy công suất khoa học ở nước ta thuộc vào hàng thấp nhất: chỉ bằng khoảng 1/5 số bài báo từ Thái Lan (n = 14.594), 1/3 Mã Lai (n = 9742), 1/14 Singapore (n = 45.633), và thấp hơn Nam Dương (n = 4.389) và Phi Luật Tân (n = 3901).  
            Về lĩnh vực nghiên cứuBảng 1 sau đây cho thấy một số xu hướng đáng chú ý giữa các nước.  Chẳng hạn như Thái Lan khá mạnh về lĩnh vực y sinh học (số bài báo trong lĩnh vực này chiếm gần 43% tổng số bài báo khoa học từ Thái Lan), trong khi đó Singapore thì mạnh về các lĩnh vực kĩ thuật (chiếm 40% tổng số bài báo khoa học).  Phi Luật Tân là nước có nhiều bài báo về nông nghiệp (chiếm gần 29% tổng số bài báo khoa học), tức gần gấp hai hay ba lần Việt Nam, Nam Dương, Mã Lai hay Thái Lan.  
Số lượng bài báo khoa học liên quan đến ngành toán và vật lí từ Việt Nam chiếm gần một phần tư tổng số bài báo khoa học, nhưng ở các nước như Thái Lan, Mã Lai, Nam Dương và Phi Luật Tân con số này chỉ dao động từ 0,5% đến 4%.  Ngay cả ở Singapore, các bài báo toán  học và vật lí học cộng lại chỉ khoảng 11%, chưa bằng tỉ lệ của một ngành toán ở Việt Nam.  Các kết quả này cho thấy ngành toán và vật lí là hai ngành "mạnh" ở nước ta.  Tuy nhiên, khi so sánh với các lĩnh vực khác trong nước thì số lượng bài báo từ ngành y sinh học chiếm đến 24% (tức gấp hai lần số bài về toán hay vật lí)  tổng số bài báo khoa học.  
            Mã Lai tuy rất khiêm tốn về toán, nhưng tỉ lệ bài báo liên quan đến ngành kĩ thuật và hóa học thì cao gần gấp hai tỉ lệ của Việt Nam và các nước trong vùng.  Điều đáng ngạc nhiên là công nghệ sinh học thuần túy còn rất khiêm tốn ở trong vùng, với số lượng bài báo khoa học chỉ dao động trong khoảng 1-4%. 
Bảng 1.  Phần trăm các bài báo khoa học 1996-2005 tính cho từng nước và phân chia theo lĩnh vực nghiên cứu
Lĩnh vực nghiên cứu
Việt Nam
Thái
Lan
Lai
Nam Dương
Phi Luật Tân
Singapore
Y sinh học
24,3
42,8
22,4
29,5
25,0
16,6
Toán
11,0
0,8
2,3
0,5
2,1
3,8
Vật lí
12,9
1,5
2,0
4,4
2,1
6,8
Kĩ thuật 
10,5
16,4
22,2
14,8
9,3
40,4
Nông nghiệp
12,6
9,2
10,0
14,7
28,7
0,9
Hóa học
12,9
13,6
20,0
13,0
5,0
11,9
Vật liệu
5,8
5,1
10,9
3,6
2,8
11,4
Môi trường
4,0
5,3
3,7
11,9
14,5
1,8
Kinh tế
2,5
1,2
2,5
4,0
3,5
3,4
Công nghệ sinh học
1,3
2,3
2,2
1,7
3,8
0,9
Khoa học xã hội
1,6
1,3
1,4
1,3
2,7
1,7
Tổng cộng 
100
(n=3456)
100
(n=14594)
100 (n=9742)
100 (n=4389)
100
(n=3901)
100 (n=45633)
Chú thích: Vì làm chẵn, cho nên khi cộng lại tổng số có thể trên hay dưới 100%; n là tổng số bài báo trong thời gian 1996-2005. 
            Nội lực và hợp tác.  Một điều đáng quan tâm hơn là phần lớn các nghiên cứu khoa học từ Việt Nam còn phụ thuộc vào các “ngoại lực” quá nhiều.  Theo một phân tích trước đây của giáo sư Phạm Duy Hiển [2], có đến 75% các công trình khoa học từ Việt Nam do đứng tên chung hoặc hợp tác với các đồng nghiệp nước ngoài.  
Trong phân tích này, chúng tôi ghi nhận khoảng 20% các bài báo công bố trong thời gian 2000-2001 là do nội lực (tức không hợp tác với đồng nghiệp nước ngoài).  Tuy nhiên tỉ lệ nội lực dao động rất lớn giữa các ngành (Biểu đồ 1).  Chẳng hạn như trong ngành y sinh học, một ngành tương đối thế mạnh và ổn định ở nước ta, trong số 164 bài báo được công bố trên các tập san quốc tế, chỉ có 5 bài (3%) là do nội lực, nhưng các ngành có tỉ lệ nội lực cao là toán (66%), kĩ thuật (~40%) và kinh tế học (41%).  Riêng 11 bài báo liên quan đến ngành công nghệ sinh học, 100% là do hợp tác với nước ngoài.  Chúng tôi chưa có dữ liệu về các công trình nội lực và hợp tác cho các nước trong vùng, nên chưa thể so sánh với nước ta. 

Biểu đồ 1.  Phần trăm bài báo hoàn toàn do nội lực.  Ghi chú: YS=y sinh học, KT=kĩ thuật, NN=nông nghiệp, VL=vật liệu, MT=môi trường, KTế=kinh tế, CNSH=công nghệ sinh học, KHXH=khoa học xã hội. 
Chất lượng nghiên cứu khoa học 
So sánh chỉ số trích dẫn với các nước trong vùng.  Trong thời gian 2000-2001, có 675 bài báo khoa học từ Việt Nam được công bố trên các tập san quốc tế.  Tổng số lần trích dẫn trong thời gian 2001 đến 2006 là 6576 lần ; do đó, chỉ số trích dẫn trung bình là 9,74 lần cho mỗi bài báo.  So sánh với các nước trong vùng cho thấy chỉ số trích dẫn các bài báo Việt Nam cao nhất so với Thái Lan (9,09), Singapore (9,26), Nam Dương (9,47) và Phi Luật Tân (9,33) (Bảng 2).
Bảng 2.  Số lượng bài báo từ một số nước Đông Nam Á công bố trên các tập san khoa học quốc tế trong thời gian 2000-2001, và số lần trích dẫn từ 2001 đến 2006
Nước
Số lượng bài báo 2000-2001
Tổng số lần trích dẫn 2001-2006
Số lần trích dẫn trung bình trên mỗi bài báo
Chỉ số trích dẫn tương đối [4]
Việt Nam
675
6576
9,74
0,59
Thái Lan
2.590
23.550
9,09
0,55
Mã Lai
1.810
11.681
6,45
0,39
Nam Dương
954
9036
9,47
0,58
Phi Luật Tân
717
6.688
9,33
0,57
Singapore
7.605
70.393
9,26
0,56
Số lần trích dẫn bao nhiêu là cao?  Không có câu trả lời cụ thể cho câu hỏi này, nhưng theo phân tích của ISI, trong tất cả các bài báo khoa học công bố trên thế giới, có khoảng 55% không bao giờ được ai (kể cả chính tác giả) trích dẫn hay tham khảo sau 5 năm công bố [4].  Trong các ngành như kĩ thuật tần số không trích dẫn lên đến 70%.  Ngay cả được trích dẫn và tham khảo, con số cũng rất khiêm tốn : chỉ có trên dưới 1% bài báo khoa học được trích dẫn hơn 6 lần mà thôi (trong vòng 5 năm).  Do đó, có người đề nghị là một bài báo được trích dẫn một cách độc lập (tức không phải chính tác giả tự trích dẫn) hơn 5 lần được xem là "có ảnh hưởng".  Những công trình có ảnh hưởng lớn thường có số lần trích dẫn 100 lần trở lên. 
            Nếu tính theo số lần trích dẫn trên 5 lần trong vòng 5 năm thì có thể nói rằng chất lượng các nghiên cứu từ Việt Nam cũng có phần khả quan.  Tính trung bình, khoảng 42% các bài báo từ Việt Nam được trích dẫn trên 5 lần, tức là cao hơn số trung bình trên thế giới.  Các ngành khoa học Việt Nam có trích dẫn cao thường là các ngành khoa học thực nghiệm như y sinh học, hóa học, nông nghiệp, môi trường và công nghệ sinh học.  Riêng hai ngành toán và kĩ thuật số lần trích dẫn không cao và có thể chẳng có ảnh hưởng gì lớn trên thế giới.  Điều đáng quan tâm là 41% các bài báo về kĩ thuật từ Việt Nam chưa bao giờ được trích dẫn sau 5 năm công bố.  
Một cách khác để gián tiếp đánh giá chất lượng là xem xét tỉ lệ các bài báo chưa bao giờ được trích dẫn.  Có khoảng 1/5 các bài báo khoa học từ Việt Nam chưa bao giờ được trích dẫn sau 5 năm công bố.  Đây cũng là tình trạng chung ở các nước trong vùng, với tỉ lệ chưa bao giờ trích dẫn (trong vòng 5 năm) được ghi nhận tại Thái Lan (15%), Mã Lai (19%), Nam Dương (19%), Phi Luật Tân (13%), và Singapore (17%). 
Ở nước ta, tỉ lệ bài báo chưa bao giờ trích dẫn dao động giữa các ngành khoa học.  Chẳng hạn như ngành y sinh học có tỉ lệ không trích dẫn thấp nhất (8,5%).  Ngược lại khoảng 41% các bài báo về kĩ thuật (kể cả cơ học) từ Việt Nam chưa bao giờ được trích dẫn sau 5 năm công bố.  Các ngành khác có tỉ lệ không trích dẫn khá cao là vật lí (28%), khoa học xã hội (27%), công nghệ sinh học (27%), vật liệu (23%) và toán học (20%). 
Một cách so sánh có ý nghĩa hơn là ước tính chỉ số trích dẫn tương đối (relative citation index hay RCI) [5], vì chỉ số này phản ảnh một phần chất lượng nghiên cứu khoa học của một nước và mức độ ảnh hưởng trên thế giới.  Tính theo chỉ số này, chất lượng và ảnh hưởng của nghiên cứu khoa học Việt Nam thuộc vào hàng cao nhất trong vùng, với RCI = 0,59.  Mã Lai là nước tuy có nhiều bài báo khoa học hơn nước ta, nhưng số lần trích dẫn không cao và cũng chẳng gây ảnh hưởng lớn trên trường quốc tế, do đó chỉ số RCI chỉ 0,39.  Ngay cả các nước khác có sản lượng khoa học cao như Singapore và Thái Lan cũng có hệ số RCI thấp hơn Việt Nam.  Sở dĩ có kết quả này là vì trong năm 2000-2001, có hai công trình y sinh học từ Việt Nam với hơn 200 lần trích dẫn, và làm tăng số lần trích dẫn trung bình cho nước ta.  Tuy nhiên, nếu chúng tôi loại bỏ hai bài báo này ra khỏi phương trình tính toán thì hệ số RCI của Việt Nam vẫn thuộc vào hạng cao nhất trong vùng. 
Một chỉ số khác có nười cho rằng khách quan hơn là chỉ số h [6].  Chỉ số h, nói một cách ngắn gọn, phản ảnh số bài báo có số lần trích dẫn cao.  Trong số các bài báo khoa học từ Việt Nam công bố trong thời gian 2000-2001, có 33 bài được trích dẫn ít nhất là 33 lần trong 5 năm sau đó (h = 33) Vì số lượng bài báo của Việt Nam thấp, cho nên chỉ số cũng thấp so với các nước trong vùng : Singapore (= 75), Thái Lan (= 50), Mã Lai (= 37), Nam Dương (= 36), và Phi Luật Tân (= 32).  Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng chỉ số này chưa phản ảnh khách quan tình trạng khoa học của một nước hay một cá nhân (nhất là các nhà khoa học trẻ) bởi vì nó phụ thuộc vào con số bài báo khoa học. 
Chất lượng của công trình hợp tác và nội lực.  Tính trung bình, các công trình nội lực có chất lượng thấp hơn các công trình hợp tác với nước ngoài.  Mỗi công trình nội lực được trích dẫn trung bình là 3,2 lần, trong khi đó công trình hợp tác có chỉ số trích dẫn trung bình là 11,6 lần.  Xu hướng này thể hiện gần như trong tất cả các ngành khoa học (Biểu đồ 2).
Ngành y sinh học có số lần trích dẫn cao nhất, kế đến là ngành vật lí, hóa học và môi trường học.  Nhưng phân tích theo nội lực và hợp tác cho chúng ta một “bức tranh” hoàn toàn khác: các công trình y học được trích dẫn nhiều là những công trình hợp tác với nước ngoài (chỉ số trích dẫn trung bình là 16) chứ không phải công trình nội lực (chỉ số trích dẫn chỉ 3,6 lần).  Sự chênh lệch thiên về các công trình hợp tác như thế cũng thấy trong các ngành như vật lí (12 so với 4,5), hóa học (10,8 so với 3,4), và kĩ thuật (9,3 so với 1,5).  
Biểu đồ 2.  Số lần trích dẫn trung bình cho mỗi bài báo công bố trong thời gian 2000-2001 phân tích theo hợp tác (ô đặc) và nội lực (ô chéo).  Ghi chú: YS=y sinh học, KT=kĩ thuật, NN=nông nghiệp, VL=vật liệu, MT=môi trường, KTế=kinh tế, CNSH=công nghệ sinh học, KHXH=khoa học xã hội.
            Bảng 3 dưới đây trình bày tỉ lệ bài báo chưa bao giờ được trích dẫn phân chia theo các công trình nội lực và hợp tác.  Nói chung, như có thể suy luận được qua Biểu đồ 2, các công trình nội lực thường có tỉ lệ chưa trích dẫn cao hơn các công trình hợp tác.  Trong số 38 bài báo từ Việt Nam được trích dẫn trên 30 lần trong thời gian 2001-2006, không một công trình bào là do nội lực.  Bài báo nội lực có số lần trích dẫn cao nhất (26 lần) là công trình của tiến sĩ Phạm Đức Chính (Viện cơ học) đăng trên Physical Review B năm 2000).  Công trình hợp tác có số lần trích dẫn cao nhất (348 lần) là công trình giải mã gien Salmonella enteria serova (nhóm Đại học Oxford thực hiện) đăng trên tập san Nature năm 2001.  Trong các ngành như nông nghiệp, vật liệu, kĩ thuật, khoảng 40-61% các bài báo chưa được trích dẫn lần nào (so với 16-28% các công trình hợp tác) (Bảng 3).  Chỉ số RCI của 145 công trình hoàn toàn do nội lực của Việt Nam là 0,45. 
Bảng 3.  Số lần trích dẫn (hay không trích dẫn) của các bài báo khoa học từ Việt Nam phân tích theo lĩnh vực nghiên cứu
Lĩnh vực nghiên cứu
Số bài báo trong thời gian 2000-2001
Tỉ lệ bài báo chưa được trích dẫn lần nào
Tổng số
Hợp tác
Nội lực
Y sinh học
164
8,5
8,2
20,0
Toán
74
20,3
32,0
14,3
Vật lí
87
27,6
25,9
31,0
Kĩ thuật 
71
40,8
27,9
60,7
Nông nghiệp
85
17,7
16,3
40,0
Hóa học
87
12,6
10,1
37,5
Vật liệu
39
23,1
15,6
57,1
Môi trường
27
14,8
17,4
-
Kinh tế
17
11,8
10,0
14,3
Công nghệ sinh học
11
27,3
27,3
-
Khoa học xã hội
11
27,3
12,5
-
Tổng cộng
675
19,1
15,7
31,7
Vài nhận xét 
Có thể rút ra những nhận xét gì qua các phân tích và so sánh trên đây ?  Thứ nhất, "sản lượng" khoa học của nước ta vẫn còn rất khiêm tốn so với các nước trong vùng (chứ chưa nói đến thế giới).  Hiện nay, số lượng bài báo khoa học từ Việt Nam vẫn cón thấp nhất so với các nước trong vùng.  Nếu (xin nhấn mạnh "nếu") mức độ tăng trưởng số bài báo khoa học của Việt Nam là 41 bài / năm (như ước tính từ phân tích này) và theo hàm số đường thẳng, và chúng ta bắt đầu với 202 bài năm 1996, thì phải cần đến 60 năm sau chúng ta mới bắt kịp số lượng bài báo của Thái Lan vào năm 2005! 
            Tuy nhiên, so với các nước trong vùng, chất lượng nghiên cứu khoa học từ nước ta không thấp, nếu không muốn nói là cao hơn.  Nếu dựa vào chỉ số RCI để đánh giá chất lượng và ảnh hưởng của nghiên cứu khoa học, Việt Nam có chỉ số RCI (0,59) cao nhất trong vùng.  Ngay cả Trung Quốc hàng năm "sản xuất" trên 20.000 bài báo khoa học trên các tập san trong danh bạ ISI, nhưng chỉ số RCI chỉ 0,27 [7].  
Tuy chỉ số RCI của Việt Nam cao hơn các nước trong vùng, nhưng vẫn còn quá thấp so với trung bình trên thế giới.  Thật vậy, chỉ số RCI = 0,59 của Việt Nam cho biết chất lượng và tầm ảnh hưởng của các nghiên cứu khoa học Việt Nam thấp hơn mức độ trung bình trên thế giới khoảng 40%.  Ở các nước có nền khoa học tiên tiến như Mĩ và Tây phương, chỉ số RCI thường cao hơn 1 (cao hơn trung bình thế giới) (Bảng 4 [7]). 
Bảng 4.  Chỉ số trích dẫn tương đối của một số nước trên thế giới. 
Nước
Chỉ số RCI
Mĩ 
1,42
Anh
1,14
Nhật
0,78
Đức
0,86
Pháp
0,87
Canada
1,00
Úc
0,97
Ý
0,75
Hà Lan
1,10
Thụy Điển
1,24
Thụy Sĩ
1,16
Trung Quốc 
0,27
Khi tính bằng số lần trích dẫn trung bình trên mỗi bài báo và mỗi năm, chỉ số trích dẫn các bài báo từ Việt Nam vẫn khá cao so với ngay cả các nước tiên tiến trên thế giới (Biểu đồ 3).  Thật vậy, chỉ số trích dẫn trung bình các công trình khoa học từ Việt Nam cao gấp 2 lần so với Trung Quốc, Đài Loan, và các nước tiên tiến, và tương đương với các công trình từ Hà Lan, Thụy Sĩ. 
Biểu đồ 3.  Số lần trích dẫn trung bình cho mỗi bài báo và mỗi năm của một số nước trên thế giới.
            Tại sao số lượng bài báo khoa học từ nước ta thấp hơn, nhưng chỉ số RCI cao hơn, các nước trong vùng Đông Nam À và vài nơi trên thế giới?  Chúng tôi nghĩ đến hai giả thuyết để giải thích cho tình trạng vừa nêu.  Thứ nhất, các nước như Singapore và Thái Lan có một số tập san nội địa xuất bản bằng tiếng Anh được công nhận và nằm trong danh bạ của ISI, nhưng các tập san này thường công bố những công trình nghiên cứu có chất lượng thấp (hiểu theo nghĩa ít người quan tâm và ít trích dẫn).  Có khả năng là các nhà khoa học địa phương không thành công đăng bài ở các tập san quốc tế họ đăng ở các tập san địa phương, và do đó chỉ số trích dẫn cũng như RCI của họ không cao.  Trong khi đó, các nhà khoa học Việt Nam chỉ có một con đường duy nhất là công bố nghiên cứu của họ trên các tập san bên Mĩ hay Âu châu, thường có hệ số ảnh hưởng (impact factor) cao hơn các tập san Singapore hay Thái Lan, nên hệ quả là chỉ số RCI của Việt Nam khá cao.  Thứ hai, các nghiên cứu từ Việt Nam phần lớn dựa vào hợp tác với các đồng nghiệp nước ngoài (như chúng tôi vừa trình bày) và các tác giả này có xu hướng công bố trên các tập san quốc tế có uy tín cao, và do đó chỉ số trích dẫn các bài báo từ Việt Nam cũng có thể tăng cao.  Điều này có thể đúng vì những nghiên cứu về các bệnh nhiệt đới từ Việt Nam (và chỉ có thể thực hiện ở các nước như Việt Nam) rất được đồng nghiệp thế giới chú ý, và qua đó gai tăng hệ số ảnh hưởng trung bình của các công trình nghiên cứu từ Việt Nam. 
            Chúng tôi nghĩ cả hai giả thuyết trên đây đều có cơ sở.  Gần 80% các bài báo khoa học từ Việt Nam trong thời gian 2000-2001 là do hợp tác với các đồng nghiệp nước ngoài.  (Con số này, tỉ lệ hợp tác với nước ngoài, ở Anh và Úc là khoảng 25%).  Nhìn chung, các công trình hợp tác với nước ngoài có chất lượng tương đối cao hơn các công trình do nội lực.  Có đến gần 1/3 (46 / 145) các công trình do nội lực chưa bao giờ được trích dẫn trong vòng 5 năm, trong khi đó con số này là 16% (83 / 530) cho các công trình hợp tác.  Điều này cho thấy hợp tác với đồng nghiệp nước ngoài có thể nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học. 
Trong điều kiện thiếu thốn thiết bị nghiên cứu và thiếu các chuyên gia có trình độ cao, việc hợp tác với các đồng nghiệp nước ngoài cần được khuyến khích để qua đó có thể từng bước nâng cao trình độ và khả năng chuyên môn của các chuyên gia trong nước.  Tuy nhiên, hợp tác thế nào để các đồng nghiệp trong nước không thiệt thòi, để tri thức vẫn thuộc về Việt Nam là vấn đề cần đặt ra.  Kinh nghiệm từ các nước đang phát triển cho thấy tình trạng "khoa học nhảy dù" [8] mà trong đó các đồng nghiệp từ nước ngoài thường có xu hướng "dành công" cho mình dù công trình nghiên cứu được thực hiện ở nội địa và sử dụng chất liệu từ nước đang phát triển.  Theo một nghiên cứu chưa đầy đủ cho thấy tính từ 1993 đến 1998, tập san British Medical Journal công bố 59 bài báo với sự hợp tác giữa các nhà khoa học các nước Tây phương và các nước đang phát triển; trong số này, 58% bài báo mà tác giả đứng đầu là các nhà khoa học Tây phương.  Tỉ lệ khoa học nhảy dù ở tập san Lancet là 57% (trong số 82 bài báo).  Trong thời gian trên, tập san Science công bố 6 bài báo hợp tác, và tất cả đều do các nhà khoa học Tây phương đứng tên tác giả đầu.  Tập san có ảnh hưởng càng cao, tỉ lệ khoa học nhảy dù hay khoa học thuộc địa càng cao.  Nói cách khác, các nhà khoa học Tây phương chỉ “tử tế” với các nhà khoa học địa phương chỉ khi nào các bài báo đăng trên các tập san có ảnh hưởng thấp, nhưng với các bài báo trên các tập san ảnh hưởng lớn thì họ dành quyền đứng tên tác giả đầu.  Trong phân tích này, chúng tôi thấy trong số 17 công trình từ Việt Nam có số lần trích dẫn cao hơn 50 lần, tất cả đều do các tác giả nước ngoài đứng tên hay chủ trì. 
            Tại sao các công trình nghiên cứu do nội lực có chất lượng thấp (hiểu theo nghĩa chỉ số trích dẫn thấp) hơn các công trình nghiên cứu do hợp tác ?  Những công trình nghiên cứu có chỉ số trích dẫn thấp thường do một trong (hay tổng hợp) hai yếu tố : thiếu cái mới trong ý tưởng, phương pháp nghiên cứu hạn chế, và thiếu kĩ năng trong hoạt động khoa học.  Chúng tôi sẽ giải thích các ý kiến đó như sau : 
Ý tưởng thiếu cái mới dẫn đến những công trình nghiên cứu lặp lại những gì người khác đã làm, và do đó không có cơ hội được công bố trên các tập san có chỉ số ảnh hưởng cao.  Nguyên nhân chính của thiếu cái mới trong ý tưởng là do thiếu thông tin và trình độ của nhà khoa học.  Ở Việt Nam, tình trạng thiếu thông tin cực kì trầm trọng.  Nhiều thư viện trường đại học chẳng khác gì một thư viện trung học ở nước ngoài ; chẳng những thế, không có đủ sách, và ngay cả có sách thì phần lớn đều lạc hậu.  Thư viện trường cũng thiếu các tập san khoa học nghiêm trọng, dẫn đến vấn đề thiếu cập nhật hóa thông tin, và nhà khoa học chẳng khác gì người mù đi trong đêm tối, vì không biết được những gì đã, đang hay sắp xảy ra trong lĩnh vực chuyên môn.  Một giảng viên trẻ bức xúc nói: “Những người muốn làm nghiên cứu như tôi phải bỏ tiền ra mua.  Tôi chi một số tiền tương đối lớn để làm thành viên của các tổ chức cung cấp tài liệu, để được đọc các tài liệu.  Đáng lẽ những việc như vậy trường có thể hỗ trợ bằng cách mua.”  Trong bối cảnh thiếu thốn thông tin như mô tả trên đây, thật là không công bằng nếu ta đòi hỏi các nhà khoa học trong nước phải có những công trình nghiên cứu chất lượng cao, nghiên cứu tiền phong.  Với tình trạng thiếu thông tin như thế, làm sao chúng ta có thể kì vọng các nhà khoa học nước ta sánh vai cùng các đồng nghiệp ở các trường lớn trên thế giới. Ngoài ra, nước ta thiếu các chuyên gia đầu ngành có tầm cỡ quốc tế, cho nên thiếu những công trình nghiên cứu mang tầm vóc quốc tế, mà chỉ loay hoay giải quyết các vấn đề đơn giản, địa phương.  
            Phương pháp nghiên cứu, kể cả thiết bị, còn hạn chế và lạc hậu.  Tình trạng này bắt buộc các nhà khoa học ta chỉ làm những nghiên cứu đơn giản, không thể đột phá, và cũng không có giá trị khoa học cao.  Thật vậy, khi chúng tôi xem qua các công trình nghiên cứu y sinh học, một lĩnh vực mà chúng tôi quen thuộc, phần lớn các nghiên cứu y học nước ta chỉ tập trung vào các vấn đề y tế công cộng, bệnh truyền nhiễm và y học nhiệt đới; chỉ có 7% là các công trình liên quan đến sinh học phân tử.  Trong 10 lĩnh vực nghiên cứu hàng đầu không có các nghiên cứu về gien và di truyền học hay nghiên cứu về nội khoa và y học lâm sàng.  Tuy nhiên, tình trạng này cũng là tình trạng chung ở các nước như Thái Lan, Malaysia và Indonesia.  Riêng Singapore thì gần như ở một “đẳng cấp” khác, vì phần lớn nghiên cứu ở đây tập trung vào các công trình mang tính “công nghệ cao” như sinh học phân tử, sinh hóa, công nghệ sinh học, di truyền học, thần kinh học, ung thư học và y học lâm sàng.
            Một công trình nghiên cứu khi đã xuất bản hay công bố cũng cần phải được "vận động" để quảng bá và qua đó tăng chỉ số trích dẫn.  Trong hoạt động khoa học, không thể kì vọng rằng khi đã công bố thì có người trích dẫn theo suy nghĩ "hữu xạ tự nhiên hương", mà phải có những kĩ năng "bếp núc" để giới thiệu công trình của mình trong các diễn đàn khoa học quốc tế.  Cách giới thiệu có thể là qua việc viết các bài tổng quan, xã luận, bình duyệt, thậm chí qua thảo luận trong các hội nghị.  Tuy nhiên, đây là một kĩ năng mà chúng tôi thấy các đồng nghiệp trong nước chưa quen thuộc hay chưa quan tâm đúng mức.  
            Nếu các phân tích trên đây gợi lên một số ý cho chính sách khoa học, chúng tôi nghĩ đến một số ý sau đây:
Thứ nhất, cần phải hướng đến việc công bố nghiên cứu trên các tập san khoa học quốc tế (sẽ gọi tắt là “công bố quốc tế”) hay đăng kí bằng sáng chế (patent) như là một tiêu chuẩn để đề bạt vào các chức danh khoa học.  Ở các đại học Tây phương và ngay cả đại học của các nước trong vùng, số lượng và chất lượng bài báo khoa học là tiêu chuẩn số một trong việc xét đề bạt lên chức giảng sư hay giáo sư [9].  Đối với cá nhân nhà khoa học, báo cáo khoa học trên các tập san khoa học quốc tế là một “đơn vị tiền tệ”, là viên gạch xây dựng sự nghiệp khoa bảng.  Chính vì thế mà trong các đại học tồn tại một văn hóa gọi là “publish or perish” (xuất bản hay là biến mất).  Ngay tại viện của chúng tôi đang công tác, nếu trong vòng 1 hay 2 năm mà nhà khoa học hay nghiên cứu sinh hậu tiến sĩ không có một bài báo nào đăng trên các tập san khoa học quốc tế, thì sự nghiệp của họ xem như “có vấn đề”. 
Còn ở nước ta, trong thời gian nhiều năm qua, tiêu chuẩn công bố nghiên cứu trên các tập san khoa học quốc tế vẫn chưa được công nhận đúng mức.  Hệ quả là đến nay chúng ta có một lực lượng giáo sư, kể cả một số "giáo sư hàng đầu", chưa có công trình nào đăng trên các tập san khoa học quốc tế.  Như một giáo sư nhận xét gần đây : "Chín vị giáo sư tiến sĩ khoa học là thành viên của Hội đồng ngành Cơ học VN không có công bố quốc tế ISI trong 10 năm vừa qua." [10].   
            Một điều đáng buồn ở nước ta là những nhà khoa học có công trình đăng trên các tập san quốc tế nhiều khi phải bị thiệt thòi so với các đồng nghiệp chưa bao giờ có bài báo đăng trên các tập san khoa học.  Chẳng hạn như trường hợp một tiến sĩ ở Qui Nhơn với hơn 10 công trình đăng trên các tập san uy tín ở Âu châu và Mĩ, với thành tích như thế anh ấy đáng lẽ là một phó giáo sư ở nước ngoài, nhưng khi xét đề bạt giảng viên ở trong nước thì anh ta lại bị đánh giá là chưa đủ điểm !  
Thứ hai, cần phải xem công bố kết quả nghiên cứu trên các tập san quốc tế là một chỉ tiêu để đánh giá (hay “nghiệm thu”?) các công trình nghiên cứu do Nhà nước tài trợ.  Ở các nước tiên tiến, công bố các bài báo trên các tập san quốc tế chính là tiêu chuẩn số 1 để các cơ quan tài trợ xem xét để cung cấp kinh phí nghiên cứu.  Nhưng hiện nay, ở nước ta, các công trình nghiên cứu sau khi hoàn tất thường được nghiệm thu một cách khá hình thức.  Có rất nhiều nghiên cứu với ngân sách hàng tỉ đồng được nghiệm thu và đánh giá là "đạt" hay "tốt", nhưng trong thực tế thì chưa có một bài báo nào trên trường quốc tế, và do đó không xứng với số tiền đầu tư do người dân đóng góp.  Có nhiều người nhầm lẫn (một cách khá khôi hài) rằng các bài "abstract" (bản tóm lược khoảng 250 đến 500 chữ) mà họ trình bày trong các hội nghị quốc tế là "bài báo quốc tế" !  Đó là một sự lãng phí khó chấp nhận được. 
Có người viện dẫn lí do rằng chỉ có khoa học cơ bản mới công bố quốc tế, còn họ làm nghiên cứu ứng dụng nên không cần.  Thật mà khó chấp nhận cách giải trình này.  Ngoài lí do mang liên quan đến quốc phòng và an ninh quốc gia, không có lí do gì để biện minh rằng công bố quốc tế chỉ áp dụng cho nghiên cứu khoa học cơ bản hay cho các nước đã phát triển.  Thật ra, nước ta có nhiều công trình nghiên cứu rất xứng đáng được chia sẻ với cộng đồng khoa học thế giới, nhưng rất tiếc, cho đến nay các công trình đó vẫn loanh quanh trong các báo cáo nghiệm thu, và hệ quả là làm thiệt thòi cho khoa học nước nhà.
            Thứ ba, cần phải khuyến khích các nghiên cứu sinh tiến sĩ công bố ít nhất một bài báo khoa học trên các tập san quốc tế trước khi bảo vệ luận án.  Đây cũng chẳng phải là một đòi hỏi gì cao siêu hay khắt khe, mà chỉ là một tiêu chuẩn, một yêu cầu phổ biến ở các đại học trong vùng và phương Tây.  Dự thảo về đào tạo tiến sĩ của Bộ Giáo dục và Đào tạo mới đây cũng có qui định một nghiên cứu sinh tiến sĩ nên có công trình nghiên cứu khoa học được đăng trên các tập san quốc tế (có bình duyệt nghiêm chỉnh) trước khi bảo về luận án.  Nếu tiêu chuẩn hay qui định này được thực hiện tốt, có thể kì vọng rằng sự có mặt của khoa học Việt Nam trên trường quốc tế sẽ được nâng cao trong vài năm tới. 
            Một vấn đề khác tuy nhỏ, nhưng có ý nghĩa quốc gia, cần phải đề cập đến ở đây là một số (nếu không muốn nói là nhiều) nghiên cứu sinh từ Việt Nam sang nghiên cứu hay làm luận án ở nước ngoài và khi công bố ấn phẩm khoa học thường không ghi địa chỉ từ Việt Nam, mà chỉ ghi địa chỉ nơi họ đang theo học.  Tình trạng này chẳng những không hợp lí (vì cá nhân nghiên cứu sinh xuất phát từ Việt Nam) mà còn làm ảnh hưởng đến năng suất khoa học của Việt Nam trên trường quốc tế.  Vấn đề này thoạt đầu mới nghe qua như là chuyện nhỏ, nhưng các đại học Tây phương xem là chuyện quan trọng đến nổi lãnh đạo trường có hẳn những văn bản và điều lệ chính thức yêu cầu các nhà nghiên cứu phải ghi rõ địa chỉ đại học hay viện nghiên cứu mà họ đang công tác hay đang giữ những chức vụ kiêm nhiệm.  Do đó, các đại học Việt Nam cần phải khuyến khích, hay nói đúng hơn là yêu cầu, các nghiên cứu sinh của trường ở nước ngoài khi công bố bài báo trên các tập san quốc tế, ngoài địa chỉ của trường họ đang theo học, cần phải đề tên trường Việt Nam vào phần địa chỉ tác giả của bài báo.
            Thứ tư, cần có chính sách đãi ngộ và tưởng thưởng các nhà khoa học trẻ có công trình công bố quốc tế.  Để nâng cao khả năng cạnh tranh trong nghiên cứu y sinh học tầm quốc tế, các đại học và trung tâm nghiên cứu cần phải tuyển dụng các chuyên gia, giáo sư, hay giảng viên trẻ có tài năng thật sự, và tạo điều kiện cho họ (như thời gian và phương tiện nghiên cứu) và trao cho họ quyền tự do theo đuổi những ý tưởng nghiên cứu mà họ thích và có khả năng thực hiện.  Cần phải có những hình thức khuyến khích tài chính cho các nhà khoa học có công trình trên các tập san quốc tế.  Ở một số đại học tại các nước như Singapore, Thái Lan, Hồng Kông, v.v… người ta thưởng khá nhiều tiền (lên đến hàng ngàn USD) cho các tác giả có công trình công bố trên các tập san quốc tế có uy tín cao.  Ngay cả tại Úc, một số trường sẵn sàng tặng hàng ngàn đô-la cho các nhà nghiên cứu có công trình đăng trên các tập san với hệ số ảnh hưởng trên 10. 
            Thứ năm, cần phải khuyến khích các tập san khoa học Việt Nam vươn đến tầm quốc tế.  Một trong những lí do mà Thái Lan và Singapore có nhiều bài báo khoa học hơn Việt Nam là hai nước này có các tập san khoa học, kể cả tập san y sinh học địa phương, được viết bằng tiếng Anh, có hệ thống bình duyệt và được ISI công nhận.  Chẳng hạn như Thái Lan có tập san Journal of the Medical Association of Thailand (tập san y học của hội y học Thái Lan), tập san ScienceAsia, và Singapore có tập san Annals Academy of Medicine Singaporelà diễn đàn của các bác sĩ và nhà khoa học địa phương.  Vì các tập san này được ISI công nhận, cho nên các bài báo ở đây được tính trong hệ thống của PubMed.  Ngược lại, ở nước ta, con số các tập san được quốc tế công nhận chỉ “đếm đầu ngón tay”, và hệ quả là con số bài báo công bố trên các tập san Việt Nam không hề được công nhận.  Ở đây, chúng tôi chưa nói đến vấn đề chất lượng, nhưng chỉ bàn đến vấn đề chấn chỉnh các tập san sao cho phù hợp với qui trình làm việc của các tập san quốc tế. 
Trong thời gian gần đây, kinh tế nước ta đã và đang phát triển nhanh chóng, nhưng hoạt động khoa học vẫn chưa theo kịp tốc độ phát triển kinh tế.  Thật ra, hoạt động khoa học Việt Nam cần một cuộc cải cách lớn.  Nếu không, chúng ta sẽ tiếp tục tụt hậu và thua kém các nước trong vòng.  Xin nhắc lại: nếu tốc độ hiện hành, chúng ta đã đi sau Thái Lan đến hơn nửa thế kỉ.  Với Singapore, chúng tôi không dám so sánh trực tiếp vì e rằng sẽ mất ý nghĩa của thống kê.  Trong khi chúng ta đang loay hoay bàn về những vấn đề to tát (như triết lí giáo dục) và đặt ra những chuẩn mực cứng nhắc và có phần không phù hợp với các chuẩn mực quốc tế, thì các nước trong vùng đang phát triển nhanh.  Đã đến lúc chúng ta cần phải mạnh dạn nhìn thật kĩ những thiếu sót, những bất cập, những hủ tục và “văn hóa khoa học” đang tồn tại trong hoạt động khoa học để xóa bỏ chúng trước khi đi tiến đến một cuộc cải cách lớn.  
Chúng tôi muốn nhắc lại một phát biểu trước đây như là lời kết của bài viết ngắn này : Cần phải khẳng định một thực tế rằng, Việt Nam không thể cạnh tranh với các cường quốc khoa học như Mĩ, Nhật hay một cường quốc khoa học đang trên đường hình thành như Trung Quốc, nhưng điều mà chúng ta có thể làm được là đảm bảo chất lượng nghiên cứu khoa học ở những lĩnh vực thuộc vào thế mạnh để nâng cao vị thế khoa học Việt Nam trên trường quốc tế.  Thiết nghĩ Nhà nước ngoài việc nâng cao hiệu suất đầu tư cho khoa học và công nghệ và cải cách hệ thống hoạt động nghiên cứu khoa học, cần phải bắt đầu phát triển các chuẩn mực cho các nhà khoa học, kể cả tiêu chuẩn giáo sư, sao cho phù phù hợp với các chuẩn mực quốc tế và không quá xa rời thực tế ở nước ta. 
Chú thích và tài liệu tham khảo:
[1]  Garfield E.  The impact factor [internet] Current Contents 1994 20;3-7 (cited 16 August 2002).  Cách tính hệ số ảnh hưởng của ISI rất đơn giản, và có thể minh họa bằng một ví dụ cụ thể như sau: Chẳng hạn như trong 2 năm 1981 và 1982, Tập san Lancet công bố 470 bài báo khoa học gốc (original papers); trong năm 1983 có 10.011 bài báo khác trên các tất cả các tập san (kể cả Lancet) có tham khảo hay trích dẫn đến 470 bài báo đó; và hệ số ảnh hưởng là: 10.011 / 470 = 21,3.  Nói cách khác, tính trung bình mỗi bài báo gốc trên tạp chí Lancet có khoảng 21 lần được tham khảo đến hay trích dẫn.  Hệ số ảnh hưởng cũng không phải là một chỉ số hoàn hảo phản ảnh chất lượng, nhưng cho đến nay vẫn chưa có chỉ số nào tốt hơn, cho nên giới khoa học vẫn phải sử dụng hệ số ảnh hưởng cho việc đề bạt giáo sư, tài trợ nghiên cứu, và đánh giá uy tín của một nhà khoa học.  Ở Úc, khi ứng viên xin được đề bạt, ngoài danh sách bài báo khoa học, ứng viên còn phải cung cấp hệ số ảnh hưởng của tạp và số lần trích dẫn cho mỗi bài báo. 
[2] Chúng tôi sử dụng cơ sở dữ liệu (database) của công ti Thomson Scientific Information (trước đây có tên là Institute of Scientific Information hay ISI).   Cơ sở dữ liệu của ISI bao gồm SCI-Expanded, SSCI, và A&HCI.  Công cụ để thu thập thông tin là phần mềm Web of Science thuộc hệ thống ISI Web of Knowledge v3.0, với từ khoá mã nước là “Vietnam” OR “Viet Nam”, “Indonesia”, “Malaysia”, “Philippines”, “Singapore”. “Thailand”.  Trong phân tích này chúng tôi chỉ giới hạn các bài báo nguyên thủy (original contribution), không tính các bài tổng quan (review) và các bản tóm tắt (abstracts) hay bài báo trong hội nghị (conference papers).  Ngôn ngữ là tiếng Anh.  Thông tin từ tất cả các bài báo khoa học được thu thập từ 2000 đến 2001.  Chúng tôi phân nhóm các bài báo khoa học vào 12 lĩnh vực nghiên cứu như sau: y sinh học (kể cả thú y, tâm lí học lâm sàng, dinh dưỡng học, di truyền, sinh hóa), toán học, vật lí học, kĩ thuật, nông nghiệp (kể cả thủy sản, thực phẩm, thực vật học), hóa học, khoa học vật liệu, khoa học môi trường, kinh tế học (kể cả quản lí kinh doanh, kế hoạch và phát triển), công nghệ sinh học, khoa học xã hội, và khoa học đa ngành.  Sau khi thu thập thông tin liên quan đến bài báo (như tên tác giả, thể loại, tập san, năm xuất bản, số lần trích dẫn, v.v…) chúng tôi lưu trữ dữ liệu trong một cơ sở dữ liệu và sử dụng ngôn ngữ thống kê (phần mềm) R để phân tích dữ liệu. 
[3] Xem bài “Nhìn lại 10 năm công bố ấn phẩm khoa học Việt Nam: các nhà khoa học nghĩ gì qua những bài báo đăng trên tạp chí quốc tế?” của Phạm Duy Hiển, Tạp chí Hoạt động Khoa học, số tháng 1 năm 2006, web: http://www.tchdkh.org.vn/tchitiet.asp?code=2033.
[4]  Phelan TJ. A compendium of issues for citation analysis. Scientometrics 1999; 45:117-36.  Theo một nghiên cứu khác, có đến 90% các bài báo khoa học công bố không bao giờ được trích dẫn hay tham khảo (xem L. I. Meho, The rise and rise of citation analysis, Physics World).  Tuy nhiên, tôi nghĩ con số 90% này được tính cả những bản tóm tắt (abstract) trong các hội nghị và các conference papers.  Do đó, con số 55% chính xác hơn.
[5] Chỉ số trích dẫn tương đối (relative citation index – RCI) phản ảnh mức độ ảnh hưởng trung bình của một nước.  Gọi n_i là số bài báo xuất phát từ nước i, và c_i là số lần trích dẫn (citations) từ những bài báo đó.  Gọi N là tổng số bài báo của tất cả các nước trên thế giới, Clà tổng số trích dẫn của tất cả các bài báo trên thế giới.  Chúng ta có thể ước tính tỉ số bài báo cho từng nước p_i (so với tổng số trên thế giới): p_i = n_i / N, và tỉ số lần trích dẫn cho từng nước q_i như sau: q_i / c_i / C.  Chỉ số trích dẫn tương đối (relative citation index hay RCI) được ước tính như sau: RCI_i = p_i / q_i.  Như có thể thấy qua công thức này, chỉ số RCI_i = 1 có nghĩa là chất lượng và ảnh hưởng của nghiên cứu khoa học của nước đó tương đương với chất lượng trung bình trên thế giới ; nếu RCI_i > 1 hay RCI_i < 1 có nghĩa là chất lượng và ảnh hưởng của nghiên cứu khoa học nước đo cao hơn hay thấp hơn trung bình thế giới.  Một nước có thể công bố nhiều bài báo khoa học (như Trung Quốc chẳng hạn), nhưng ít ai trích dẫn hay quan tâm, và do đó chỉ số RCI rất thấp (0,27).
[6] Chỉ số do một nhà vật lí học đề nghị, và tài liệu tham khảo là: Hirsch, Jorge E., (2005), "An index to quantify an individual's scientific research output," Proc Natl Acad Sci USA 2005;102(46):16569-16572.  Bài báo này có thể download hoàn toàn miễn phí từ địa chỉ sau đây:http://www.pnas.org/cgi/content/abstract/102/46/16569.
[7] May RM. The scientific wealth of nations. Science 1997; 275:793-796. 
[8] Xem bài “Làm khoa học kiểu nhảy dù” của Nguyễn Văn Tuấn, Tia Sáng, số tháng 6 năm 2007. 
[9] Trong ngành y khoa, để xét đề bạt giáo sư trong các đại học Tây phương, ngoài các tiêu chuẩn về giảng dạy, tài trợ nghiên cứu và phục vụ xã hội, một tiêu chuẩn quan trọng số 1 là số lượng và chất lượng bài báo khoa học của ứng viên.  Theo một qui định gần như “bất thành văn”, muốn được đề bạt lên “assistant professor” (giáo sư dự khuyết) ứng viên phải có từ 3-5 bài báo khoa học;  một associate professor (phó giáo sư) phải có từ 15 bài báo khoa học trở lên (trong số này 5 bài phải là tác giả đầu); và một professor (giáo sư) phải có từ 50 bài báo trở lên (và trong số này phải là tác giả đầu của 20 bài).  Đây chỉ là những tiêu chuẩn rất chung chung và có thể nói là tối thiểu.  Cố nhiên, các tiêu chuẩn này còn tùy thuộc vào trường đại học và chuyên môn, cho nên không ai có thể đưa ra một qui định chính xác được.
[10]  Xem bài "Nhân và Quả" của giáo sư Phạm Lợi Vũ, Tia Sáng :www.tiasang.com.vn/news?id=2076.
Địa chỉ email để liên lạc tác giả : t.nguyen@garvan.org.au haytuan.nguyen@unsw.edu.au.

Nhân chuyện dịch tả nhớ lại John Snow


Nguồn: http://ykhoanet.azurewebsites.net/congtacvien/nguyenvantuan/071201_Johnsnow_nguyenvantuan.htm

Nhân chuyện dịch tả nhớ lại John Snow
Nguyễn Văn Tuấn
Phát biểu trên báo Pháp Luật TPHCM, viện trưởng Viện vệ sinh dịch tễ trung ương, Tiến sĩ Nguyễn Trần Hiển nói: “Tôi từng nhắc ông Triệu (Nguyễn Quốc Triệu, Bộ trưởng Bộ Y tế - PV) bài học kinh điển của dịch tả trở thành bài giảng của y văn thế giới:  Vào cuối thế kỷ 17, dịch tả bùng phát ở Luân Đôn, có quá nhiều người chết mà không rõ nguyên nhân. Một bác sĩ đã chấm vị trí những người chết lên bản đồ thành phố Luân Đôn và phát hiện ra họ sống quanh một vòi nước. Trong khi vòi nước khác lại không có người chết. Từ đó, vị bác sĩ phát hiện thêm rằng các vòi nước ở đây do hai công ty cung cấp: một lấy đầu nguồn sông Thames, một lấy cuối nguồn sông. Vòi nước có nhiều người chết được lấy từ cuối dòng sông Thames.”
Thật ra thời điểm dịch tả mà ông viện trưởng đề cập đến không phải xảy ra vào thế kỉ 17 mà thế kỉ 19.  Nói chính xác hơn, có ba đợt dịch tả xảy ra ở London: 1831-1832, 1848-1849, và  1853-1854. 
Vị bác sĩ mà ông viện trưởng nhắc đến là John Snow.  Các bạn nào từng theo học môn dịch tễ học trong những năm làm “nghề” học trò trong các trường y chắc phải biết đến cái tên John Snow.  Ông là ai?  Có liên quan gì đến câu chuyện bệnh tả mà chúng ta đang thảo luận?  Bài viết ngắn này nhắc lại thân thế và sự nghiệp của ông cũng như một số bài học mà tôi thấy chúng ta cần phải học từ ông và cách suy nghĩa của ông.
***

John Snow là một bác sĩ ngoại khoa, nhưng ngày nay, ông được xem là ông tổ của bộ môn dịch tễ học hiện đại (modern epidemiology) và gây mê (anesthetics).  Ông sinh năm ngày 16/3/1813 ở York (Anh) trong một gia đình thuộc giai cấp lao động (cha ông là một công nhân mỏ than), nhưng sau này khi khá lên gia đình ông bắt đầu mua được đất đai và trở thành địa chủ.  Ngay từ lúc còn bé, ông đã tỏ ra là một đứa trẻ ham học, có khiếu ghi chép cẩn thận và tư chất thông minh, cho nên mẹ ông dùng tiền thừa hưởng từ ông bà ngoại để gửi ông theo học tại một trường tư.  Trong trường học ông càng chứng tỏ trí thông minh của mình, lúc nào cũng dẫn đầu lớp học. 

Từ nhỏ ông đã có mộng hành nghề thầy thuốc.  Năm 14 tuổi, ông được nhận vào học nghề (apprentice) với bác sĩ William Hardcastle ở Newcastle-upon-Tyne.  Trong thời gian học nghề, ông ghi chép rất cẩn thận những gì mình quan sát và viết ra những ý tưởng liên quan đến khoa học và y khoa.  

Đây là ảnh của bác sĩ John Snow chụp vào khoảng 1857 lúc ông tròn 44 tuổi (trước khi ông qua đời 1 năm). Đây là ảnh phổ biến nhất trong các sách giáo khoa dịch tễ học và gây mê.  Không rõ người chụp ảnh là ai.
Đối phó với dịch tả lần 1: 1831-1832
Năm 1831 (tức năm ông 18 tuổi) một trận dịch tả xảy ra ở London.  Dịch này đã từng giết hàng trăm ngàn người ở Âu châu, lan truyền sang miền Bắc và đến Newcastle-upon-Tyne vào tháng 10 cùng năm.  Bác sĩ Hardcastle có quá nhiều bệnh nhân với bệnh tả mà ông không thể nào phụ trách nổi, nên ông gửi Snow đến các mỏ than để điều trị công nhân mỏ.  Nhưng thời đó, Snow cũng chẳng làm gì được nhiều, vì liệu pháp điều trị chỉ quanh quẩn với trích máu, thuốc nhuận tràng, thuốc phiện, bạc hà, và rượu mạnh (cognac) và các liệu pháp này cũng chẳng giúp ích gì cho bệnh nhân.  Nhưng Snow vẫn điều trị bệnh nhân với các phương pháp “cổ điển” này.  Đến tháng 2 năm 1832 thì nạn dịch chấm dứt một cách bí mật.  Dịch đến cũng như đi đều đột ngột và bí mật!
Trong thời gian 1833 – 1836 ông trở thành phụ tá (assistant) cho các bác sĩ trong vùng Burnopfield và Pateley Bridge.  Năm 1836, ông ghi danh theo học trường y Hunterian ở London.  Năm 1838, ông được nhận vào thực tập trong bệnh viện Westminster và trở thành hội viên của Royal College of Surgeons (hiệp hội của các bác sĩ giải phẫu).  Năm 1844, ông tốt nghiệp bác sĩ y khoa.  Năm 1850, ông được kết nạp thành hội viên của Royal College of Physicians (hiệp hội của các bác sĩ nội khoa). 
John Snow suốt đời sống độc thân, không vợ, không con.  Ông là người ăn chay trường và không bao giờ uống rượu.  Suốt đời ông chỉ la cà trong các hội y khoa để bàn chuyện khoa học và thảo luận về những ý tưởng của ông.  Tuy vậy, ông là một người không có khiếu nói trước công chúng, giọng thì khàn khàn rất khó nghe.  Mặt khác, vì ông xuất thân từ giai cấp lao động, nên ít ai chú ý đến ý tưởng của ông, nếu không muốn nói là khinh miệt ông ra mặt.
Ông suy nghĩ nhiều về các nguyên nhân khả dĩ của bệnh tả, và đi đến kết luận rằng bệnh có thể phát sinh từ các kí sinh vật vô hình.  Thật ra, suy nghĩ này cũng không phải là mới, nhưng vẫn được xem là phi chính thống vào thời đó.  Giả thuyết vi trùng (germ theory) này từng được đề nghị từ thời Trung cổ, nhưng chẳng ai biết “sinh vật vô hình” đó là gì, chẳng ai biết làm sao chứng minh sinh vật đó hiện hữu, nên chẳng ai dám tin đó là giả thuyết đúng.  Vào thời đó, đại đa số giới y sĩ tin rằng nguyên nhân của bệnh tả là một loại “khí độc” (miasma) nào đó xuất phát từ các cống rãnh, đầm lầy, đống rác, nghỉa trang, v.v…

Nhưng Snow cảm thấy “giả thuyết khí độc” không thể giải thích được tại sao một số bệnh, kể cả bệnh tả, có thể lan truyền.  Trong nạn dịch năm 1831, ông để ý đến các công nhân mỏ mắc bệnh tả trong khi làm việc dưới lòng đất, nơi không có cống rãnh hay đầm lầy.  Thành ra, ông càng thấy giả thuyết kí sinh trùng của mình mang tính thuyết phục hơn giả thuyết ám khí. 

Đối phó với dịch tả lần 2: 1848-1849

Tháng 9 năm 1848 (lúc đó ông đã 35 tuổi), một nạn dịch tả khác xảy ra ở London.  Ông quyết tâm truy tìm cho được nguồn gốc của trận dịch này cho đến nơi đến chốn.  Ông được biết nạn nhân đầu tiên, John Harnold, một người buôn bán đường biển từ Hamburg đến London vào ngày 22/9/1848.  Khi đến London, Harnold mướn một căn hộ thuộc vùng Horsleydown, nơi mà ông bị bệnh tả và chết vài ngày sau đó.  Snow tìm hiểu bệnh lí của Harnold qua nói chuyện với bác sĩ riêng của bệnh nhân.  Bác sĩ cho ông biết chỉ vài ngày sau khi Harnold qua đời, Snow lại đi điều trị cho một người khác (tên là Blenkinsopp) cũng ở ngay tại căn hộ mà Harnold từng ở, và bệnh nhân này cũng qua đời sau 8 ngày mắc bệnh.  Lúc này, Snow cảm thấy cái chết thứ hai là bằng chứng ban đầu cho thấy bệnh tả có thể lan truyền.  Ông nghi rằng căn hộ đó chưa được làm sạch sau khi Harnold qua đời và có thể một số kí sinh trùng con sống trong chăn gối và lây bệnh cho nạn nhân thứ hai. 

Khi càng ngày càng có nhiều bệnh nhân, Snow chú ý rằng tất cả đều có những triệu chứng liên quan đến đường tiêu hóa.  Snow lí giải rằng đây là bằng chứng “chứng minh” rằng bệnh bắt nguồn từ thức ăn bị nhiễm hay nguồn nước bị nhiễm.  Nếu bệnh nhân tiếp thu kí sinh trùng từ ám khí (như “giả thuyết độc khí” ám chỉ) thì triệu chứng đầu tiên ắt phải biểu hiện qua mũi hay phổi – chứ đâu thể qua đường tiêu hóa. Ông bàn với đồng nghiệp về giả thuyết kí sinh trùng nhưng chẳng ai lắng nghe.

Tháng 8 năm 1849, nạn dịch tả bước vào năm thứ hai.  Snow cảm thấy ông phải chia sẻ giả thuyết và bằng chứng của ông (mà ông cho là thuyết phục nhất) rằng bệnh tả phát sinh là do nguồn nước bị nhiễm.  Ông bỏ tiền túi để xuất bản một cuốn sách nhỏ gồm 39 trang (thật ra là một tờ rơi, leaflet) có tựa đề là “On the Mode of Communication of Cholera”  (Bàn về mô hình lan truyền của bệnh tả).  Trong sách, ông trình bày nhiều số liệu thống kê và bằng chứng cá nhân để biện minh và lí giải cho giả thuyết của ông.  Ông mô tả một trường hợp mà trong đó có hai dãy nhà đối diện nhau, một bên thì có nhiều bệnh nhân bệnh tả, còn một bên thì thì chỉ có một bệnh nhân, và khác biệt giữa hai dãy nhà này là họ sử dụng hai nguồn nước khác nhau.  Để tránh bị các đồng nghiệp tấn công giả thuyết này, ông cẩn thận chọn chữ sao cho có vẻ phù hợp với niềm tin đương thời.  Ông viết rằng có một độc tố (dùng chữ “poison”) có khả năng phát triển theo cấp số nhân trong hệ thống tiêu hóa của bệnh nhân trước khi lan truyền sang các nạn nhân khác qua đường nước hay thức ăn bị nhiễm trùng.

Nhưng cuốn sách của ông chẳng gây ảnh hưởng gì đáng kể.  Thậm chí có người còn giễu cợt giả thuyết của ông.  Tuy nhiên, một bài tổng quan y văn trên tập san London Medical Journal xuất bản vào tháng 9/1849 khen Snow rằng ông đã có công cố làm sáng tỏ một vấn đề bí ẩn của bệnh tả, nhưng người viết bài này còn “phang” một câu “các nguyên nhân khác, bất kể là nước hay thức ăn, có thể là nguyên nhân chính " và rằng " bác sĩ Snow chưa cung cấp đủ bằng chứng để yểm trợ cho quan điểm của ông."

Trong thời gian tính cuối năm 1849 đến cuối năm 1853, có ít ca bệnh tả được báo cáo. Tuy nhiên, Snow vẫn kiên trì theo đuổi giả thuyết rằng nước là nguồn lây lan bệnh tả.  Trong thời gian này, ông thu thập số liệu trong trận dịch 1848-49 và cho thấy một xu hướng rõ ràng rằng bệnh có thể truy tìm từ các nguồn cung cấp nước trong thành phố. 

Số liệu liên quan đến bệnh tả do John Snow thu thập tại London trong thời gian 8/1853 – 1/1854.

Quận (district)
Công ti cung cấp nước
Số hộ trong vùng
Số người chết vì bệnh tả
Tỉ lệ tính trên 1000 hộ
1
Southwark & Vauxhall
40.046
1.263
315
2
Lambeth
26.107
98
37
3
Cả hai công ti
256.423
1.422
59

Nguồn: Trích từ cuốn “On the Mode of Communication of Cholera, Second Edition, 1854” của John Snow.  Cuốn này tái xuất bản vào năm 1936.  Trong sách ông mô tả bảng số liệu này như sau: "Dựa vào số liệu tử vong trong thời gian 8/1853 đến 1/1854 của Nha Đăng Bạ tôi đã cộng tất cả số tử vong xảy ra trong các quận phía nam sông Thames, nơi mà nước được công ti Southwark & Vauxhall và Lambeth cung cấp. Tôi trình bày các số liệu này trong bảng ... sắp xếp theo ba nhóm...."

Trong thời gia này ông còn tiếp tục theo đuổi các nghiên cứu về ảnh hưởng và tác dụng của ether và chloroform cho gây mê.  Tuy các đồng nghiệp ông đều không tin vào giả thuyết kí sinh trùng và bệnh tả của ông, nhưng họ đều ấn tượng với các nghiên cứu về gây mê.  Ngày 7/4/1853 ông sử dụng chloroform để đở đẻ cho Nữ hoàng Victoria khi bà hạ sinh người con thứ 8, đó là hoàng tử Leopold.

Dịch tả lần 3: 1853-1854

Mùa hè năm 1853, dịch tả lại xảy ra ở ngoại ô London nơi ông làm việc.  Ông nghi rằng sự bộc phát của bệnh là do nguồn nước từ sông Thames bị ô nhiễm.  Ông truy tìm tất cả các hồ sơ từ các quận lị chung quanh và phát hiện có hai công ti cung cấp nước.  Một công ti có tên là “Southwark & Vauxhall Water Company” lấy nước từ một vùng dọc theo sông Thames, và nguồn này có nhiều cống rãnh bị ô nhiễm; một công ti khác, Lambeth Water Company, lấy nước từ nguồn cách xa cống rãnh.  Snow quyết định so sánh tỉ lệ tử vong ở khách hàng của hai công ti.  Khi biết rằng cả hai công ti đặt ống nước dưới đường lộ, ông thấy mình có thề làm một thí nghiệm mà ông cho là “ở qui mô vĩ đại nhất” (on the grandest scale.)  Bày tỏ sự hào hứng trước thí nghiệm này, ông viết trong nhật kí:

Có ít nhất là 300 ngàn người nam và nữ ở bất cứ độ tuổi nào và nghành nghề nào, từ người quí tộc đến người nghèo khó, được chia thành hai nhóm mà họ không thể chọn lựa, và, trong phần lớn trường hợp, họ cũng không biết; một nhóm được cung cấp nước chứa chất thải từ cống rãnh, và một nhóm khác nhận nước tinh khiết” 

Snow bắt đầu với 2 quận phía Nam London: quận Lambeth và Kennington.  Hai quận này từng ghi nhận 44 ca tử vong trước ngày 12/8.  Nhưng xác định trong các ca này, ai từng nhận nước từ công ti nào không phải là điều dễ dàng.  Phần lớn cư dân không biết nguồn nước họ đã sử dụng.  Snow quyết định làm một việc mà ngày nay chúng ta gọi là “field work” (điền giả): ông ghé thăm từng nhà để tìm hiểu, và qua đó ông xác định được 38 trong số 44 ca tử vong đã xảy ra trong các hộ do công ti Southwark & Vauxhall cung cấp nước – công ti lấy nước từ nguồn bị ô nhiễm. 

Thế rồi, ông quyết định mở rộng cuộc điều tra dịch tễ học lịch sử này.  Nhưng một mình không có khả năng làm, nên ông phải nhờ sự giúp đỡ của bác sĩ Joseph J. Whiting để ghé phân nửa số hộ, còn ông ghé phân nửa còn lại.  Khi hai người ngồi xuống làm thống kê, họ phát hiển rằng trong vòng 4 tuần (8/7 đến 5/8) có 286 trong số 334 ca tử vong đã sử dụng nước của công ti Southwark & Vauxhall, trong khi đó chỉ có 14 ca tử vong sử dụng nước của ông ti Lambeth.

Snow thu thập số liệu về dân số của các quận, rồi tính toán, và phát hiện rằng tỉ lệ tử vong từ khách hàng của công ti Southwark & Vauxhall so với công ti Lambeth là 71:5.  Với kết quả này, Snow rất hào hứng vì ông cho rằng đây là bằng chứng rất mạnh cho thấy nguồn nước uống có ảnh hưởng lớn đến sự bộc phát của bệnh tả.

Nhưng các đồng nghiệp ông vẫn chưa thấy thuyết phục!  Họ vẫn cho rằng bệnh tả là do “ám khí”, chứ không phải vi trùng hay nước bị nhiễm, và họ thêm rằng dù cho có kí sinh trùng thì cái sông khổng lồ Thames làm loãng hết cả!  Theo họ, nước chẳng có dính dáng gì đến bệnh tả.  Bác sĩ Edmund A. Parkes viết: "Mấy thứ bằng chứng này không chứng minh rằng nước bị nhiễm." Thật ra, theo tiêu chuẩn ngày nay, người ta đã phải hành động trước bằng chứng của Snow, nhưng thời đó, niềm tin còn quan trọng hơn bằng chứng thực tế.  

Cuối tháng 8 năm 1853, bệnh dịch tả lại đột nhiên bộc phát tại London, chỉ cách nhà của ông 5 phút đi bộ, và lần này càng nghiêm trọng hơn các lần trước.  Snow lập tức theo dõi.  Dịch bộc phát vào ngày Chủ Nhật 3/9, nhưng có lẽ đã xảy ra trước đó vài ngày thứ Năm hay thứ Sáu.  Đến khi ông ghé thăm láng giềng thì phần lớn những người mắc bệnh đã chết.  Một lá cờ vàng được treo trên đường Berwick để cảnh báo cư dân rằng bệnh tả đang tấn công.  Cư dân bỏ nhà lánh nạn, để mặc cho người chết được nhà chức trách chở đi chôn bằng xe ngựa.

Chiều ngày Chủ Nhật, Snow lấy một mẫu nước từ cây nước công cộng trên đường Broad vì phần lớn các ca tử vong ở gần cây nước này.  Ông biết rằng các công ti cung cấp nước đến cây nước này lấy từ nguồn nước sạch, nhưng ông nghi ngờ rằng giếng dưới cây nước có thể bị nhiễm trùng từ đường cống chung quanh hay gần đó.  Mẫu nước có vẻ rất sạch (dù ông kì vọng rằng sẽ thấy nước bẩn).  Để so sánh, ông lấy các mẫu nước từ 4 cây nước gần đó trên đường Warwick, Bridle, Vigo, Marlborough.  Tất cả các mẫu nước đều không có gì khác biệt đáng kể; tất cả đều có vẻ sạch sẽ. 

Không đầu hàng, đến ngày kế tiếp, ông lại lấy mẫu nước từ cây nước trên đường Broad và đem lại cho Tiến sĩ Arthur Hill Hassall, một nhà khoa học có kính hiển vi, để “xét nghiệm”.  Tiến sĩ Hassall báo cáo rằng ông tìm thấy rất nhiều “vật hữu cơ” trong nước, nhưng ông thêm rằng điều này không có gì quá bất thường.  Nói tóm lại, bằng chứng từ sinh học không thế cho phép ông kết luận gì được.  Thế là quay sang thống kê học.  Ông thu thập số liệu và bản đồ nơi các ca tử vong từng sinh sống và nguồn nước họ sử dụng lúc còn sống.

Ngày hôm sau, ông ghé qua Nha Đăng Bộ (General Register Office) nới ông sao chép hồ sơ của từng cá nhân trong số 83 ca tử vong.  Ông ghi tên họ, địa chỉ của từng ca tử vong.  Ông quay lại đường Broad, đi quanh các con đường mà nạn nhân từng sinh sống, và tính toán khoảng cách từ nhà của từng nạn nhân đến cây nước gần nhất.  Ông phát hiện rằng 73 (trong số 83 nạn nhân) từng sống trong các hộ gần cây nước đường Broad hơn là các cây nước khác.  Sau đó, ông ghé thăm nhà của 10 nạn nhân những người sống gần cây nước, ông được biết 8/10 nạn nhân từng uống nước từ cây nước trên đường Broad, một số thích uống nước từ cây nước đó và trẻ em uống nước từ cây nước đo trên đường đi học. 

Trong số 73 nạn nhân sống gần cây nước trên đường Broad, ông còn biết rằng 61 người từng uống nước từ cây nước đó.  Ông tính toán rằng nếu những người sống gần cây nước đó có tỉ lệ tử vong tương đương với tỉ lệ tử vong trong toàn thảnh phồ London, thì con số tử vong kì vọng (expected number of deaths) cho vùng chỉ 14.  Do đó, ông kết luận rằng con số tử vong thực tế xảy ra (73) cao hơn con số kì vọng quá cao, và tử vong chắc chắn phải có liên quan đến cây nước trên đường Broad.

Bản đồ chỉ các địa điểm chung quanh cây nước trên đường Broad.  Các dấu chấm là ca tử vong.  Chỗ có chữ P và dấu chấm lớn là cây nước định mệnh.  John Snow thu thập bằng chứng thống kê cho thấy tỉ lệ tử vong vì bệnh tả cao trong các hộ và cơ sở thương mại cách cây nước chỉ vài phút đi bộ.  Các điểm màu đen chỉ số nạn nhân chết vì bệnh tả.
Nguồn: Đại học York.

Ngày Thứ Năm 6/9, Snow tham dự buổi họp phường, trình bày bằng chứng ông vừa thu thập được, và đề nghị tháo bỏ cái cán nước để cư dân không uống nước được và tránh bị nhiễm trùng.  Nhưng chính quyền phường dù không cảm thấy thuyết phục trước bằng chứng của ông, nhưng đồng ý tháo gở cán nước như là một biện pháp phòng ngừa.  

Sau khi cán nước được tháo gở và trái chanh được đem ra sử dụng phổ biến, nạn dịch tả nhanh chóng kết thúc.


Biểu đồ cho thấy sau khi cán nước được tháo gở vào ngày 8/9/1854, số ca bệnh tả giảm và dịch tả nhanh chóng kết thúc. [John Snow data.pdf]


Điều tra nguyên nhân dịch tả

Vì giới chức y tế lúc bấy giờ vẫn tin rằng ám khí là thủ phạm của dịch tả, nên Sở Y tế London bổ nhiệm một số thanh tra y tế để tìm hiểu điều khiện không khí trong các vùng dịch bộc phát.  Họ cũng kiểm tra tình trạng vệ sinh của từng hộ.  Trong lúc đó, một giả thuyết được đề ra trên tờ Times of London rằng bệnh tả phát sinh từ những cống rãnh mới xây: "Các cống rãnh mới xây chắc chắn làm nhiễu loạn đất thấm đẫm xác chết của những nạn nhân trong nạn dịch 1665 ... một độc khí nguy hiểm bộc phát . . . làm ô nhiễm bầu không khí chung quan."  Với giả thuyết này, các thanh tra y tế nghĩ là họ sẽ tìm được ám khi là thủ phạm gây bệnh tả.  Thế nhưng khi xem xét tất cả các hộ, họ ngạc nhiên thấy nhà nào cũng sạch sẽ!

Trong cùng lúc, Snow tự mình làm nghiên cứu.  Ông phát hiện nhiều bằng chứng thú vị:
·        Ông ghé thăm một quán cà phê gần cây nước trên đường Broad, nơi chủ nhân cho biết bà thường hay lấy nước từ cây nước đó để nấu nướng, và 9 khách hàng của bà đã qua đời.
·        Snow bắt đầu tìm thêm bằng chứng các hộ chung quan thật sự có uống nước có thể không phải lấy từ cây nước trên đường Broad.  Ông phát hiện rằng các quán bia địa phương pha nước với rượu để bán cho khách hàng, và nhiều hàng quán cho một loại bột vào nước rồi bán dưới nhãn hiệu "nước giải khát."
·        Snow còn biết rằng 18 người trong số 200 công nhân tại một hãng làm mũ chết, và hãng này lấy nước từ cây nước trên đường Broad cho công nhân uống.  Tại một cửa hàng bán đồ làm răng tất cả 7 công nhân viên đều chết sau khi uống nước từ cây nước trên đường Broad.
·        Chưa hài lòng với các bằng chứng trên, ông còn truy tìm những người đã di dời khỏi khu bị bệnh tả trong những ngày đầu bệnh bộc phát, và thu thập tên họ, địa chỉ của nạn nhân đã qua đời tại các bệnh viện ngoài vùng ảnh hưởng. Khi ông ngồi xuống và tính toán, ông phát hiện rằng thay vì 83 ca tử vong lúc đầu ông biết, con số thật là 197 ca tử vong, tất cả đều xảy ra ở những hộ cách cây nước trên đường Broad chỉ 3 phút đi bộ.
·        Snow còn thu thập số liệu và bằng chứng về các ca tử vong thoạt đầu không có dính dáng gì đến nạn dịch.  Ông được biết từ một đồng nghiệp, bác sĩ David Fraser (một quan chức trong Sơ Y tế London), rằng một phụ nữ qua đời nhưng sống cách cây nước trên đường Broad Street vài cây số cũng có liên quan đến cây nước đó vì lúc sinh thời bà đòi uống nước từ đó mỗi ngày.  Cô cháu gái ghé thăm bà cũng uống nước từ cây nước đó, ngã bệnh, và qua đời vài ngày sau khi ghé thăm bà.
·        Snow rất tò mò về mật độ dân số tại những vùng có ít ca bệnh tả.  Ông phát hiện trong một trại cải tạo chỉ có 5 trong số 535 người chết, một tỉ lệ khá thấp so với các nhà chung quanh.  Các quan chức y tế dựa vào “giả thuyết ám khí” cũng thú nhận là họ kì vọng tỉ lệ tử vong trong trại cải tạo phải cao hơn ngoài cộng đồng bởi vì trại thường thiếu vệ sinh, thiếu dinh dưỡng, và các phức tạp khác – và theo giả thuyết của họ, người trong trại phải có nguy cơ bị bệnh và tử vong cao hơn trung bình.  Tuy nhiên, Snow tìm hiểu thêm và biết rằng trong trại họ có một cây nước riêng và không dùng nước từ cây nước trên đường Broad.
Các quan chức y tế cũng kì vọng rằng tỉ lệ tử vong phải cao ở hãng bia Lion Brewery nơi công nhân uống bia hàng ngày – vì họ cho rằng uống bia rượu có liên quan đến bệnh tả.  Thật ra, không một công nhân nào trong hãng (gồm 70 công nhân) tử vong.  Snow biết thêm rằng họ chỉ uống bia và không bao giờ đụng đến cây nước trên trên đường Broad.
Ngày 25/9 các thanh tra y tế kiểm tra gạch xây giếng phía dưới cây nước trên đường Broad và chắc chắn rằng không có dấu hiệu nào khả nghi; nước không thể thoát đi được hay nước từ ngoài không thể thâm nhập được.  Còn cống rãnh thì cách xa đó cả chục thước và sâu hơn giếng nước.  Tất cả sự thật này có vẻ bác bỏ giả thuyết của Snow.  Hài lòng với giếng nước và cây nước không bị nhiễm, và nạn dịch cũng đã qua, Sở Y tế cho phép cây nước hoạt động trở lại.  Người dân bỏ nhà nay cũng quay về sinh sống. 
Hợp tác với linh mục Whitehead
Tháng 11, Linh mục Henry Whitehead mời Snow tham gia vào ủy ban giáo phận St. James để điều tra nguyên nhân của một nạn dịch mới bộc phát.  Snow rất vui lòng tham gia vào dự án này.  Linh mục Whitehead dù không chấp nhận giả thuyết của Snow rằng nước là nguồn gốc của dịch tả nhưng thích tính bộc trực và thành thật của Snow cũng như phương pháp làm việc của ông.
Lúc đó, Snow đang hoàn tất bản in lần thứ 2 của cuốn sách “On the Mode of Communication of Cholera”, và dù không có bằng chứng thực thể về cây nước trên đường Broad bị ô nhiễm, ông cảm thấy thuyết phục rằng cây nước chính là “thủ phạm” của dịch tả.  Ông khuyên ủy ban giáo phận yêu cầu Nha công chánh (chịu trách nhiệm cây nước) tái kiểm tra phía trong của giếng.  Họ đồng ý kiểm tra và báo cáo rằng "không có lỗ hổng nào hay đường nức nào trong giếng để nước có thể bị thất thoát hay ô nhiễm."  Trước bằng chứng này, Snow đành phải thú nhận trong sách của ông là không có bằng chứng trực tiếp về cây nước trên đường Broad bị ô nhiễm.
Sau khi sách của ông được tái xuất bản, ông phân phối sách cho từng hội viên của ủy bản giáo phận.  Linh mục Whitehead đọc sách và thấy ấn tượng với các bằng chứng thống kê của Snow, nhưng vì không có bằng chứng nào cho thấy cây nước bị nhiễm nên ông cũng không tin vào giả thuyết của Snow.  Linh mục lí giải rằng nếu giả thuyết của Snow đúng, thì dịch tả ắt phải còn kéo dài chứ không thể đột ngột chấm dứt như thế.  Tuy không thấy thuyết phục với giả thuyết của Snow, linh mục đồng ý giúp đỡ Snow đi tìm câu trả lời cho một “vấn đề bí ẩn”.


Ảnh bên trái: Đường Broad, vào khoảng 1850.  Ảnh cho thấy cây nước lịch sử trước nhà số 40.  Ảnh bên phải là cây nước lịch sử được phóng lớn, hình chụp phía trước Viện bảo tàng John Snow ở London. Nguồn: UCLA
Tháng 3 năm 1855, linh mục Whitehead đọc các báo cáo từ Sở Đăng Bạ về tình trạng dịch tả từ tuần 3/9/1854 và ông thấy có một thông tin quan trọng: Tại số 40 đường Broad, vào ngày 2/9, một trẻ gái 5 tháng tuổi chết vì tiêu chảy sau khi mắc bệnh 4 ngày.  Whitehead nhớ ca này, nhưng không tìm hiểu thêm ngày mà bé bị bệnh.  Bây giờ thì ông nhận ra rằng nếu đứa trẻ có triệu chứng bệnh 4 ngày trước khi chết thì bé có thể là trường hợp tả đầu tiên trong khu láng giềng.  Ông cũng nhận ra rằng cây nước trên đường Broad nằm ngay tại trước nhà số 40.
Linh mục Whitehead lập tức ghé thăm Sarah Lewis, mẹ của đứa bé.  Bà mô tả đứa bé mắc bệnh ra sao, bà rửa sạch sẽ tả cho em trong cái xô nước, và đổ nước xuống hầm chứa phân ngay trước nhà bà.  Whitehead ngạc nhiên khi biết rằng có một cái hầm phân ở đây.  Ông tưởng rằng tất cả các hầm phân trên con đường này đã được thay thế bằng ống cống cả rồi.  Hầm chứa phân mà bà Lewis sử dụng chỉ cách cây nước đường Broad và giếng nước vài bước.  Linh mục thông báo cho các ủy viên của giáo phận biết, và Snow lập tức chú ý đến tin này.
Ngày 23/4 các thanh tra y tế đến khai quật hầm phân, rút hết nước, và xem xét phần nền của giếng nước.  Thanh tra y tế khám phá rằng gạch xây của giếng có dấu hiệu bị phân rã từ phía ngoài (dù bên trong thì vẫn không có dấu hiệu bị ảnh hưởng).  Hầm chứa phân được xây để chặn nước không bị tràn vào cống rãnh.  Tuy nhiên, hầm được xây quá tồi, gạch không chặt, và khoảng cách từ hầm phân bị rỉ ra và giếng nước của cây nước chỉ 0,8 m.  Đất giữa hầm phân và giiếng nước có dấu hiệu thấm và nhiễm.  Hai thanh tra trước không phát hiện điều này vì họ không kiểm tra đất phía ngoài giếng, và chẳng ai biết rằng có 1 hầm phân chỉ cách đó vài thước!  
Ngày mà xô nước được đổ vào hầm phân đúng và ngày đầu tiên dịch bộc phát, khi phần lớn nạn nhân mắc bệnh.  Sau khi đứa bé chết, không có xố nước nào đổ vào phần hâm, và dịch tả chấm dứt.  Thế là Whitehead và Snow đã tìm ra “thủ phạm” của dịch tả: nguồn nước.  Ủy ban giáo hội báo cáo cho Sở Y tế, nhưng giám đốc Sở Y tế bác bỏ kết luận của Whitehead và Snow! 
Di sản dịch tễ học của John Snow
Ngày 16/6/1858, John Snow bị tai biến và qua đời.  Cho đến ngày ông chết, giả thuyết của ông vẫn chưa được chấp nhận.  Các quan chức y tế vẫn tin rằng “ám khí” là nguyên nhân của dịch tả.  
 
Mộ của John Snow ở London.  Trên bia mộ của dòng chữ ghi công của ông trong nỗ lực điều tra bệnh tả. Nguyên văn bia mộ viết như sau: “TO JOHN SNOW, M.D., BORN AT YORK, MARCH 15, 1818, DIED IN LONDON, JUNE 16TH, 1858.  IN REMEMBRANCE OF HIS GREAT LABOURS IN SCIENCE AND OF THE EXCELLENCE OF HIS PRIVATE LIFE AND CHARACTER THIS MONUMENT (WITH THE ASSENT OF MR. WILLIAM SNOW) HAS BEEN ERECTED OVER HIS GRAVE BY HIS PROFESSIONAL BRETHREN AND FRIENDS)”Tạm dịch: “Cho John Snow, M.D., sinh tại York, ngày 15/3/1818, từ trần ngày 16/6/1858 tại London. Để ghi nhớ nỗ lực vĩ đại cho khoa học và xuất sắc trong đời sống riêng tư và nhân cách.  Bia này được dựng (với sự tán thành của ông William Snow) trên mộ ông bởi các đồng nghiệp và bạn hữu”. 
Chú ý: bia này viết sai ngày sinh của ông.  Bia ghi là ngày sinh là 15/3/1818, nhưng sự thật là ông sinh ngày 15/3/1813.
John Snow qua đời mà không biết rằng đến năm 1854 một nhà giải phẫu người Ý, Fillipo Pacini, dùng kính hiển vi và phát hiện vi khuẩn trong vành ruột là nguyên nhân gây bệnh tả.  Lúc đó, Pacini không biết gọi vi khuẩn là gì, và cũng không chứng minh được rằng vi khuẩn mà ông khám phá là nguyên nhân của bệnh tả.  Do đó, công trình của ông trở nên lu mờ, và ngay cả báo cáo của ông cũng không được dịch sang tiếng Anh.
Giả thuyết vi khuẩn gây bệnh tả chưa được chấp nhận cho đến thập niên 1860s khi Louis Pasteur chứng minh bằng thí nghiệm rằng các vi sinh vật có thể gây bệnh.  Đến năm 1884, giả thuyết của John Snow được minh chứng khi nhà vi sinh học người Đức, Robert Koch, phát hiện vi khuẩn tả Vibrio cholerae.
Vi khuẩn Vibrio Cholerea hình dấy phẩy. Nguồn: Từ điển bách khoa Britannica
Vì những nỗ lực kiên trì của ông trong việc xác định nguồn gốc bệnh tả và mô hình bệnh lan truyền cũng như phương pháp lí giải thống kê của ông, John Snow được xem là cha đẻ của bộ môn dịch tễ học hiện đại.
Những bài học cho chúng ta
            Cuộc đời và nhất là sự nghiệp của John Snow như vừa trình bày cung cấp cho các nhà dịch tễ học rất nhiều bài học trong công việc phòng chống bệnh tả ở nước ta.  Theo tôi, có 5 bài học chính qua theo dõi và tìm hiểu việc làm của ông tổ ngành dịch tễ học này như sau:
            Thứ nhất là cẩn thận trong suy luận.  Dù nghi ngờ cây nước trên đường Broad là “thủ phạm” gây dịch tả, nhưng ông vẫn phải so sánh với các cây nước khác để tìm hiểu xem có sự khác biệt nào về tỉ lệ tử vong giữa hai nhóm.  Chẳng những thế, ông còn cố công thu thập số liệu để so sánh tỉ lệ tử vong ở khách hàng của hai công ti cung cấp nước.  Đây là bài học quan trọng vì suy luận khoa học không thể chỉ dựa vào một nhóm bệnh nhân hay một nhóm đối tượng được.  Muốn có một bức tranh y tế công cộng chính xác, khoa học cần hai nhóm: nhóm bệnh và nhóm chứng. 
Bài học này quan trọng, bởi vì trong vụ bộc phát bệnh tả ở nước ta trong thời gian qua, các quan chức y tế chỉ tập trung vào một nhóm duy nhất: đó là nhóm bệnh có tiền sử từng ăn mắm tôm.  Từ con số 93% bệnh nhân báo cáo rằng họ từng ăn mắm tôm, các quan chức y tế qui kết mắm tôm là “thủ phạm số 1”, là “nguyên nhân” gây bệnh!  Suy luận này không theo một logic dịch tễ học nào, và như chúng ta thấy đã sai lầm và gây tổn hại cho một thành phần kinh tế trong xã hội.
            Thứ hai là dựa vào bằng chứng khách quan.  Y học thực chứng (evidence-based medicine) đòi hỏi hoạch định các chính sách Y tế công cộng phải dựa vào bằng chứng thực tế mang tính khoa học.  Trước khi học thuyết y học thực chứng ra đời, John Snow đã hành động theo bằng chứng.  (Chính vì thế mà năm 2003 tạp chí Hospital Doctors bầu ông là bác sĩ vĩ đại nhất trong mọi thời đại, vì ông đã đi trước thời đại!)  Ông xây dựng giả thuyết (cũng có thể nói là “lí thuyết”) dựa trên quan sát nguồn nước và số cư dân sống chung quanh cây nước trên đường Broad. 
Khác với các quan chức y tế nước ta chỉ vi hành ngắn và “thị sát” tình hình bệnh tả, ông đích thân đi “điền dã” thăm từng nhà, nói chuyện với chủ nhân từng hộ, thu thập cẩn thận dữ liệu, vẽ bản đồ, phân tích số liệu và đi đến kết luận.  Tuy nhiên, khi bằng chứng thực tế không phù hợp với giả thuyết của ông, ông cũng trung thực trình bày rõ ràng trong sách mà không hề tỏ ra lúng túng hay xấu hổ.  Thật là một thái độ khoa học đáng quí rất khó tìm ngày nay.
            Thứ ba là thua thập số liệu chi tiết.  Một bài học quan trọng trong các nghiên cứu cá nhân của John Snow là ông thu thập dữ liệu cực kì chi tiết.  Sách ông ghi lại từng trường hợp tử vong với các thông tin như tên họ, địa chỉ, nghề nghiệp, địa điểm làm việc, và hàng loạt thông tin về cá nhân cũng như môi trường.  Chính các thông tin này giúp cho ông xây dựng một bảng thống kê rất quí thời đó. 
            Điều này cũng rất tương phản với các quan chức y tế nước ta.  Tôi nhớ đến lúc đầu họ khẳng định mắm tôm là “thủ phạm sô 1” gây bệnh, nhưng chúng ta không biết “ăn mắm tôm” có nghĩa là gì, và họ thu thập thông tin đó ra sao.  Còn các yếu tố khác như nguồn nước, thói quen ăn rau sống, vệ sinh và môi trường, v.v… chúng ta cũng không được biết. 
            Thứ tư là công bố số liệu để đồng nghiệp kiểm tra.  Khoa học cần phải có phản nghiệm, và cách phản nghiệm hay nhất là công bố số liệu để đồng nghiệp bình luận và phê phán.  John Snow là một tấm gương sáng chói về lĩnh vực này.  Dù biết rằng giả thuyết của mình khó được đồng nghiệp chấp nhận, nhưng ông vẫn kiên trì công bố số liệu để đồng nghiệp xem xét cẩn thận và phản biện.
            Tôi thấy đây là một bài học quan trọng cho các quan chức y tế nước ta.  Trong thời gian dịch bệnh bộc phát, các quan chức không công bố số liệu cụ thể để đồng nghiệp xem xét.  Thay vào đó, họ chỉ lặp đi lặp lại con số 93% (có khi thì 80%, khi khác 90%, lại có khi 100%) bệnh nhân có tiền sử ăn mắm tôm mà không cho chúng ta biết mẫu số là bao nhiêu.  Họ cho chúng ta biết rằng họ đã “nghiên cứu” về các yếu tố nguy cơ phát bệnh, nhưng chúng ta cũng không có dữ liệu nào ngoài những câu chữ của họ.  Thiết tưởng, đó không phải là một thái độ khoa học.
            Thứ năm là làm việc hợp tác.  Trong quá trình nghiên cứu nguyên nhân bệnh tả, John Snow phải cộng tác với đồng nghiệp trong nghề y và người ngoài nghề y.  Thật vậy, chính linh mục Whitehead mới là người giúp ông phát hiện nguồn nước chính là “thủ phạm” gây nên nạn dịch tả ở Anh. 
            Ngày nay, hợp tác trong nghiên cứu khoa học không còn là cái gì mới nữa, bởi vì một dự án nghiên cứu lớn và phức tạp đòi hỏi kiến thức chuyên môn từ nhiều ngành khác nhau.  Trong điều tra dịch tả, các chuyên gia như dịch tễ học, thống kê học, vi sinh học, dân số học, và lâm sàng đóng vai trò rất quan trọng để đảm bảo thành công của nghiên cứu.  Đối chiếu với tình hình ở nước ta, các hợp tác khoa học cũng có nhưng hình như chỉ giới hạn với các nhóm thuộc Tổ chức Y tế Thế giới (thể hiện hiện tượng “Bụt ở ngoài linh thiêng hơn”) và đó là một điều đáng tiếc.  Đáng lẽ hợp tác phải rộng rãi hơn và đa ngành hơn.  Một dự án nghiên cứu lớn có nhiều dự án nhỏ và cần đến chuyên gia chuyên sâu để thực hiện các dự án như thế.
            Trong cuộc đời tương đối ngắn ngủi của ông, Snow để lại cho đời 82 bài báo khoa học.  Danh sách các bài báo có thể tham khảo tại trang nhà của Đại học California Los Angeles.  Xem qua các bài báo này cộng với câu chuyện về cuộc đời và việc làm của bác sĩ John Snow tôi thấy ông cho chúng ta nhiều bài học vẫn còn mang tính thời sự ở nước ta.  Để kết thúc bài này, tôi mượn phát biểu của bác sĩ Gro Harlem Brundtland, cựu tổng giám đốc Tổ chức Y tế Thế giới nói về sự nghiệp của Snow: “Trong lịch sử y học, sự giao phối giữa khoa học và y tế là một hiện tượng tương đối mới.  Cách đây không lâu, dị đoan, bùa phép, và chiêm tinh là những vũ khí duy nhất của tổ tiên chúng ta để chống trả bệnh tật và dịch bệnh vốn đã ám ảnh thế giới.  Thời xưa, bệnh và dịch bệnh được xem là sự trừng phạt của thánh thần hay tác động xấu của một thế lực nào trên trời … Chúng ta ghi ơn các nhà dịch tễ học, vi trùng học và dược học như Louis Pasteur, Robert Koch, John Snow, Alexander Fleming và Paul Erlich – và các khám phá của họ đã uốn nắn y học hiện đại cũng như chính sách y tế ngày nay.  Họ cứu vớt nền văn minh của chúng ta ra khỏi thời tâm tối, thời của những biến cố không tên thành những sự việc có tên như bệnh dịch, bệnh tả hay giang mai.” (Diễn văn đọc năm 1998 tại WHO, Geneva).


Tài liệu tham khảoPhần lớn các dữ liệu về cuộc đời và các nạn dịch đượclược dịch từ bài viết “Father of modern epidemiology” của David Vachon trên Website:
http://www.ph.ucla.edu/epi/snow/fatherofepidemiology.html.  Các tài liệu khác thì dựa vàocuốn sách “The Medical Detective: John Snow and the Mystery of Cholera” của Sandra Hempel. Ngoài ra, tài liệu Map-making and myth-making in Broad Street: the London cholera epidemic, 1854.  The Lancet, Volume 356, Issue 9223, Pages 64-68 H. Brody, M. Rip, P. Vinten-Johansen, N. Paneth, S. Rachman